Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều trị bệnh niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới

I. Giới thiệu: Niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới là bất thường bẩm sinhgây ứ nước thận hiếm gặp. Tỷ lệ mắc bệnh vào khoảng 1/1000 người, nam nhiều hơn nữ [1].Bệnh nhân thường vào nhập viện ở độ tuổi 30 đến 40 do sự phát triển dần dần của tình trạng ứ nước thận. Các phương tiện chẩn đoán hình ảnh thường là đủ để chẩn đoán chính xác trước phẫu thuật[1].

II. Ca báo cáo: Bệnh nhân nữ 25 tuổi vào nhập viện vìlý do trước đó thường đau âm ỉ vùng hông lưng phảiđi siêu âm thấy thận phải ứ nước độ III, không phát hiện sỏi niệu. Bệnh nhân được chụp CT Scanner hệ tiết niệu có cản quang để chẩn đoán, sau đó được lên kế hoạch phẫu thuật với phương pháp nội soi sau phúc mạc. Quá trình phẫu thuật chúng tôi tiến hành tiếp cận khoang sau phúc mạc phải bằng 03 Trocar vùng hông lưng, bóc tách mở rộng khoang tìm thấy niệu quản đoạn 1/3 trên chui vòng ra sau tĩnh mạch chủ dưới từ bờ phải qua bờ trái và bị tĩnh mạch chủ dưới chèn ép gây ứ nước đài bể thận và niệu quản đoạn trên. Chúng tôi đã tiến hành cắt đứt niệu quản về phía bờ phải tĩnh mạch chủ dưới sau đó giải phóng niệu quản bị chèn ép phía sau, đưa niệu quản ra trước, đặt sonde JJ kích thước 07 Fr và khâu nối lại niệu quản. Hiện tại sau mổ giờ thứ 4 bệnh nhân đã tỉnh táo hoàn toàn, huyết động ổn, nước tiểu trong, dẫn lưu ổ mổ không có nước tiểu chảy ra (hình 1).

III. Bàn luận: Việc chẩn đoán niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới thường dựa vào các phương tiện chẩn đoán hình ảnh trong đó chủ yếu là chụp cắt lớp vi tính đa lát cắt (MSCT) hoặc chụp X quang niệu đồ tĩnh mạch (UIV). Đặc điểm X quang của niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới trên phim UIV được chia làm 2 loại: Loại I, niệu quản chạy sau tĩnh mạch chủ dưới ngang mức đốt sống thắt lưng III và nó có hình ảnh niệu quản biến dạng giống móc lưỡi câu hoặc chữ S, loại này thường gây ứ nước thận với tỷ lệ 50%; Loại II, đoạn niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới ở ngang mức bể thận, có thể thấy niệu quản hình liềm, loại này thường ứ nước mức độ vừa và tỷ lệ gặp thấy hơn loại I [2].

Việc điều trị thường dựa vào tình trạng lâm sàng, mức độ ứ nước thận, và chức năng thận. Đối với những trường hợp thận ứ nước vừa, không có suy thận và vavs biến chứng liên quan thì có thể điều trị bảo tồn, khám theo dõi định kỳ [1]. Điều trị niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới bằng phẫu thuật cắt rời niệu quản sau đó chuyển vị trí niệu quản ra trước tĩnh mạch chủ dưới rồi khâu nối phục hồi niệu quản thường cho kết quả tốt đã được ghi nhận ở nhiều báo cáo của các tác giả khác nhau [1].

IV. Kết luận: Niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới là bất thường bẩm sinhgây ứ nước thận hiếm gặp. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào chụp MSCT hoặc UIV. Phẫu thuật thường mạng lại kết quả tốt và ngày nay phẫu thuật nội soi sau phúc mạc là kỹ thuật được lựa chọn đầu tiên

Tài liệu tham khảo

1. Uthappa MC, Anthony D, Allen C. Case report: Retrocaval ureter: MR appearances. Br J Radiol. 2002;75(890):177–179.

2. Bateson EM, Atkinson D. Circumcaval ureter: A new classification. Clin Radiol. 1969;20(2):173–177

TS.BS Thái Cao Tần

Một số hình ảnh

Hình 1. Hình ảnh niệu quản sau tĩnh mạch chủ dưới trên phim CT scanner, UIV và trong mổ